Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh là một chủ trương lớn, liên tục, lâu dài của Đảng ta. Nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh rất phong phú, thể hiện trong toàn bộ di sản và cuộc đời hoạt động của Bác, có mối quan hệ thống nhất, biện chức tạo nên nhân cách vĩ đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa, văn hóa nhân loại.
Đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh; là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện của Bác về đạo đức, vị trí, vai trò của đạo đức, những chuẩn mực giá trị của đạo đức cách mạng và những nguyên tắc xây dựng đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động qua chính tấm gương đạo đức của Bác, trong mỗi hành động, lời nói, cử chỉ, việc làm và sinh hoạt hằng ngày. Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Bác, được thể hiện trong công việc, ứng xử, gần gũi và tự nhiên, có sức hút, cảm hóa kỳ diệu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà... Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên". Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”.
Với trọng trách là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên, đóng góp công sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và xây dựng phát triển Công ty Hudland nói riêng. Bước vào thời kỳ mới, Đoàn Thanh niên Công ty tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt đẹp của mình góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Công ty ngày càng phát triển vững mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đoàn, trong đó đặc biệt chú trọng việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, đó là khẳng định của đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiên cứu, tổng hợp và xác định, gồm: Tư tưởng vể giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phòng con người: Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách cơ bản vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đối với vấn đề dân tộc thuộc địa, là tinh thần đấu tranh, hy sinh, giành cho được độc lập, bởi vì “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc, là mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người, mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc trước hết là phải giành lại nền độc lập cho tổ quốc và phải được tiến hành chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Lễ kết nạp đảng viên của Chi bộ Công ty HUD Land |
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực thiễn của Hồ Chí Minh, thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh, là sự phản ánh mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để nhất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tê phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinht hần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động; Chủ nghĩa xã hội là mọt xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khói áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú; Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi; Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Hồ chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và xây dựng con người; trong đó, quyết định nhất vẫn là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công-nông-trí thức, phải kết hợp giữa cá nhân với xã hội trong thực hiện, coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Hồ Chí Minh khẳng định, phải căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây làm chính, kết hợp xây dựng và bảo vệ trong phạm vi một quốc gia.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc về phát triển kinh tế Việt Nam. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta còn thấp kém; Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý, nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu, công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển; Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta; Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam gồm các hình thức sở hữu của nhà nước tức là sở hữu toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ và các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo; Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm, phát triển sản xuất để tăng sản phẩm xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong các chặng đường phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân;
Tư tưởng Hồ Chí Minh vể bảo vệ tổ quốc: Lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và đấu tranh cách mạng, phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến. Xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội, đồng thời xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phòng toàn dân, đây là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực và sức mạnh tinh thần to lớn;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc: Về phạm trù nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, phạm trù chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Bác, luôn tin và sức mạnh của nhân dân, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi; Về không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, Bác đã nói: “chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành được độc lập, giành được tự do mà dân chết đói, chết rét thì tư do, độc lập cũng không làm gì, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ; Về đại đoàn kết dân tộc, Bác đã khái quát, đoàn kết làm ra sức mạnh, đoàn kết là thành công, đoàn kết là thắng lợi. Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp-dân tộc;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người: Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loại người; Xây dựng nền văn hóa mới phải đáp ứng được trên góc độ tâm lý phải có tinh thần độc lập tự cường, trên góc độ luân lý là phải biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng, trên góc độ xã hội thì mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội, trên góc độ chính trị phải đảm bảo dân quyền và xây dựng kinh tế. Muốn xây dựng nền văn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải xây dựng trên tất cả các mặt trân kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người: Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định mọi thành cồng của sự nghiệp cách mạng, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mặt, lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng; Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược, phát triển kinh tế xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục-đào tạo theo nghĩa hẹp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân: Theo Hồ Chí minh, dân chủ có nghĩa “dân là chủ”, đối lập với quan niệm “quan chủ”, thể hiện bản chất trong cấu tạo quyền lực của xã hội; Để thực hiện được dân chủ, trước hết cần phải xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước nhà, gắn độc lập tự do của tổ quốc với quyền lợi của từng người dân, đồng thời phải thực hiện xây dựng các tổ chức đảng, nhà nước, mặt trân và các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh để bảo đảm dan chủ trong xã hội. Xây dựng đảng với tư cách là đảng cầm quyền, đngr lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng mặt trận với vai trò liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước, xây dựng các tổ chức chính trị xã hội rộng rãi khác của nhân dân. Có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong đảng thì mới bảo đảm được dân chủ toàn xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, nhà nước do dân và nhà nước vì dân. Nhà nước Việt Nam mới là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân với những đặc điểm sau: do đảng công sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển xã hội và nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hoạt động của nhà nước phải bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Nhà nước dân chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật, dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương phép nước, mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải đảm bảo cho nguyên tắc quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trên thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm được việc thực thi quyền lực của nhân dân. Để làm được điều này, cần phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài, tuyệt đối trung thành với cách mạng, hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, cán bộ công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng: Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân; đảng lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, nên được toàn thể nhân dân lao động và cả dân tộc thừa nhận và đi theo. Đảng cầm quyền, nhưng là quyền do nhân dân ủy nhiệm, nhân dân mới thực sự là chủ, đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Vì vậy, xây dựng đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách quan, bản thân đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Trong điều kiện trở thành đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn. Xây dựng đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, phải dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa mác-Lê nin để xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng; xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị; Xây dựng đảng về tổ chức, đủ sức mạnh, có hệ thống tổ chức chặt chẽ, có tính kỷ luật từ trung ương đến cơ sở, coi trong vị trí và vai trò của chi bộ đảng, đó là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên; Xây dựng đảng về cán bộ, phải luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, xứng tầm nhiệm vụ; Xây dựng đảng về đạo đức, đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó đảng mới trong sạch, vững mạnh. Không như vậy, đang sẽ rơi vào suy thoái, biến dạng, tha hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ, sức mạnh ấy từ dân mà ra, do dân gây dựng, phát triển.
Vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi con người: Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách, có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng vẻ vang, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phòng giai cấp, giải phóng con người, làm cho con người Việt Nam từ nghèo đói trở nên đủ ăn, từ đủ ăn trở nên khá, từ khá trở nên giàu và giàu thì lại càng giàu thêm; Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, ca thượng của xã hội, con người, người có đạo đức là người cao thượng, một dân tộc dù kinh tế còn lạc hậu nhưng có đạo đức cần, kiệm, liêm chính thì vẫn xứng đáng là một dân tộc văn minh; Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm người trong mọi hoàn cảnh, không dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời cuộc; Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có taam, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa mác-Lê nin, đưa chủ nghĩa Mác-Lê nin vào cuộc sống.
Những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng, đó là: Trung với nước, hiếu với dân, trung, hiếu là đạo đức tuyền thống của dân tộc Việt Nam, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng, phải gắn bố với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước; Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình, yêu thương con người là giúp cho nhau ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn, để làm được điều đó cần phải tự phê bình và phê bình, chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đây là nguyên tắc nền tảng của đời sóng mới, là phẩm chất trong tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh, theo Bác, cần, kiệm, liêm chính là bổn tính của con người, như trời có bốn mùa, như đất có bốn phương, chí công vô tư là đặt lợi ích của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết; Tinh thần quốc tế trong sáng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Bác ra phạm vi toàn nhân loại, được thể hiện qua sự đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì mục tiêu chung “bốn phương vô sản đều là anh em”, đoàn kết quốc tến với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Nguyên tắc xây dựng đạo đức: Hồ Chí minh đã nêu lên ba nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Bác đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình làm tấm gương để giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Trước hết, là nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức, đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm, thế hệ đi trước làm gương cho thế hệ đi sau, lãnh đạo làm gương cho nhân viên, đảng viên làm gương cho quần chúng; Xây đi đôi với chống, cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, chống “chủ nghĩa cá nhân”, muốn xây phải chống, chống để nhằm mục đích xây; Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành, tu dưỡng đạo đức, tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác trong mình, phải dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục, tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt công đồng, trong mối quan hệ của mình.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người cả đời phấn đấu hy sinh, tất cả vì dân, vì nước, vì hạnh phúc của mọi người, Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; là tấm gương với ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được mục đích, được nuôi dưỡng bởi truyền thống đạo đức của dân tộc, ở Hồ Chí Minh đã hình thành một lý tưởng và hoài bão đúng đắn, thái độ luôn lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh con người, vào cuộc sống, chính nghĩa, đầy ý chí, nghị lực tinh thần to lớn tạo ra động lực để vượt qua mọi khó khăn thử thách, chông gai đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng; là tấm gương hết lòng thương yêu, quý trọng, phục vụ nhân dân, là người cán bộ thì phải có trách nhiệm với dân, đừng nghĩ làm cán bộ chứ không phải làm cách mạng, cho nên từ việc nhỏ đến lớn đều phải vì nhân dân, ở bất kỳ cương vị nào cũng phải vì dân mà phục vụ; là tấm gương nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, luôn hết mực vì con người và là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và hết sức khiêm tốn.
Nói đến phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liên với tư tưởng, đạo đức của Bác; thể hiện một nhân cách lớn, siêu việt, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn. Đó là phong cách của một vĩ nhân, một chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn. Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Bác, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, bao gồm:
Phong cách tư duy: Hồ Chí Minh là người mác xít, phong cách tư duy của Bác trước hết là phương pháp biện chứng duy vật, xuất phát từ thực tiễn để trở lại biến đổi thực tiễn với những đặc trưng nổi bật là: Một phong cách tư duy khoa học, cách mạng, hiện đại, tiếp cận vấn đề một cách khoa học, gắn với yêu cầu thực tiễn và điều kiện lịch sử; một phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không giáo điều, rập khuôn, không vay mượn của người khác, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý, phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn; một phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình, luôn xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, những lẽ phải không ai chối cãi được để nhận thức và lý giải những vấn đề của thực tiễn.
Phong cách lãnh đạo: Là lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giữ cho mình phong cách lãnh đạo dân chủ, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; quần chúng, luôn luôn gần dân, tin dân, trọng dân, dựa vào dân, gắn bó với nhân dân và luôn luôn thực hiện nêu gương của người lãnh đạo. Theo Bác, thực hành dân chủ, tôn trọng quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến mọi người thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sự đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để giải quyết thắng lợi nhiệm vụ.
Phong cách làm việc: ở Bác luôn toát lên một phong cách làm việc khoa học, khách quan, trung thực, làm việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc thực chất tình hình, không né tránh những sự việc tiêu cực, thường được đội danh là “nhạy cảm”, càng không cho phép lợi dung hai chữ “nhạy cảm” để che chắn sai lầm, bưng bít sự thật, bênh che cho nhau và một phong cách làm việc luôn luôn đổi mới, không cố chấp, bảo thủ, tư duy lối mòn, kinh nghiệm chủ nghĩa, luôn cải tiến để ngày càng tốt hơn, đó cung cũng là phong cách thời đại đòi hỏi phải có.
Phong cách diễn đạt: Phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất trong cách nói và viết. Tùy theo mục đích, đối tượng, thể loại mà Bác có cách viết khác nhau, theo tiêu chí xác định là Viết cho ai? Viết để làm gì…Từ đó, Bác có phong cách diễn đạt rất đa dạng, phong phú tùy biến, uyên bác, hàn lâm với các chính khách phương Tây, hàm súc, “ý tại ngôn ngoại” với các bậc đại nho và mộc mạc, giản dị đối với những đồng bào ít chữ. Phong cách diễn đạt của Bác được đặc trưng bởi những điểm sau: cách nói, cách viết giản dị, cụ thể thiết thực; diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng, có lượng thông tin cao; sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh, sự ví von, so sánh cụ thể và phong cách diễn đạt luôn luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng.
Phong cách ứng xử: Ứng xử là cách quan hệ giao tiếp, đối xử giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, ứng xử không chỉ thể hiện qua lời nói, cử chỉ, nét mặt bề ngoài mà chủ yếu là ở sự chân thành của tình cảm và của mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng. Ứng xử được coi là biểu hiện tổng hợp của văn hóa-đạo đức, qua cách ứng xử có thể thẩm định được nhân cách con người. Phản ánh nhân cách, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức trong sáng của Bác, nét chung tạo nên tính nhất quán trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là sự chân thành, bình dị, tự nhiên. Đó không phải là một “nghệ thuật xã giao” mà là sự phản ánh trung thực tâm hồn, đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh với những đặc trưng cơ bản như sau: khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp; chân tình, nồng hậu, tự nhiên và linh hoạt, chủ động, biến hóa, sẵn sàng vì cái lớn mà châm chức cái nhỏ.
Phong cách sống: Nét chung trong phong cách sống của Hồ Chí Minh là rất mực giản dị, thanh cao, đạm bạc trong đời sống vật chất, nhưng lại vô cùng phong phú về những giá trị đạo đức-tinh thần; chứa chan tình yêu thương con người, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp…với những rung động, nhạy cảm của một tâm hồn nghệ sỹ. Phong cách sống cần, kiệm, liêm, chính; sống hài hòa kết hợp văn hóa Đông-Tây, tôn trọng quy luật tự nhiên và gắn bó với thiên nhiên.
Tuổi trẻ Hudland học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Thấm nhuần tư tưởng của Bác và nhận thức rõ nhiệm vụ quan trọng của mình; cán bộ đoàn viên thanh niên Công ty cổ phần đầu tư và phát triển bất động sản Hudland đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các luận điệu xấu, thiếu tích cực, không ngừng tự bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, phát huy tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn, xây dựng phong trào hành động cách mạng, phong trào đồng hành, giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, phối hợp chặt chẽ với Công đoàn Công ty trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội, kiên định mục tiêu xây dựng lớp lớp cán bộ đoàn “vừa hồng”, “vừa chuyên” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ở bất kỳ giai đoạn nào, thanh niên luôn là lực lượng xung kích cách mạng, là cánh tay và đội hậu bị của Đảng, là người phụ trách dìu dắt các cháu thiếu niên, nhi đồng. Trước những khó khăn, thách thức của quá trình hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội và xu hướng phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi cán bộ làm công tác Đoàn và thanh niên phải củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ, đồng thời Đoàn phải nghiên cứu tìm ra nhiều hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc.
Cán bộ, đảng viên Công ty HUD Land về thăm quê Bác |
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, tình hình an ninh chính trị xã hội có nhiều diễn biến phức tạp với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là trên mặt trận công nghệ thông tin, mạng xã hội, nhiều thông tin thiếu chính thống, thiếu tính tích cực được đăng tải tràn lan gieo rắc hoang mang, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Từ những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng và thực hiên mục tiêu Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra, giáo dục cán bộ, đoàn viên thanh niên phải thực sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết và quan trọng trong bồi dưỡng, rèn luyện ý chí, bản lĩnh chính trị góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng vững mạnh, xây dựng Công ty Hudland phát triển bền vững, góp phần ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Để làm được điều đó, trong quá trình lãnh đạo tổ chức Đoàn Thanh niên của mình, cán bộ, đoàn viên thanh niên Công ty Hudland đã nghiêm túc, gương mẫu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và đặt ra cho mình những nguyên tắc, mục tiêu cụ thể như sau:
Một là, cán bộ, đoàn viên thanh niên phải thực sự là lực lượng xung kích đi đầu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và xem đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và suốt đời. Nghị quyết trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", trong 27 biểu hiện đó hiện nay một bộ phận cán bộ, đoàn viên thanh niên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện chệch hướng trong tư tưởng, lối sống. Vì vậy, việc học tập và làm theo gương Bác phải thực sự coi trọng và thể hiện bằng những việc làm, hành động, phong trào cụ thể, thiết thực nhằm lan tỏa gương sáng, khẳng định vai trò tiên phong và sự đóng góp to lớn của tổ chức Đoàn. Dưới sự dìu dắt của Đảng, thanh niên phải tự thân vận động, phải “biết lo toan, gánh vác, không ỷ lại”; thường xuyên sáng tạo và đổi mới trong suy nghĩ và hành động; dám nghĩ, dám làm, dám hi sinh và cống hiến vì mục tiêu chung của đất nước. Muốn vậy, tổ chức Đoàn phải tự đổi mới cách tiếp cận đối với thanh niên; thanh niên phải sáng tạo trong cách làm, cách học tập, có như vậy học tập và làm theo mới có hiệu quả.
Hai là, quan tâm thích đáng đến công tác bồi dưỡng và nâng cao ý thức chính trị cho cán bộ, đoàn viên thanh niên. Xuất phát từ thực trạng một bộ phận cán bộ Đoàn, bộ phận thanh niên trong xã hội hiện nay có dấu hiệu, biểu hiện lệch chuẩn trong tư tưởng chính trị và hành động cách mạng làm ảnh hưởng đến vai trò xung kích của tổ chức Đoàn. Từ đó, đòi hỏi Đoàn phải chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức về lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc; giáo dục và nâng cao kiến thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chú trọng công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội Đảng, Đại hội Đoàn các cấp; tạo động lực cống hiến sức mình cho sự nghiệp phát triển hệ thống chính trị, xây dựng Đảng, Nhà nước.
Ba là, phải đặt mình vào tổ chức, thực hiện đúng tôn chỉ, hành động, nhiệm vụ của cán bộ, đoàn viên thanh niên. Thanh niên ở bất kỳ giai đoạn, thời kỳ nào sống phải có lý tưởng cách mạng, tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện, tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải đặt mình vào trong tổ chức, gánh vác trọng trách và thực hiện nhiệm vụ của một cán bộ, đoàn viên thanh niên thì mới hiểu vị trí, vai trò là lực lượng xung kích cách mạng, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng ta, Nhân dân ta, Tổ quốc và dân tộc ta. Khi đứng vào hàng ngũ của tổ chức Đoàn, với vai trò, trách nhiệm cán bộ, đoàn viên thanh niên phải luôn nêu cao tinh thần cách mạng, tuyên truyền về truyền thống của tổ chức Đoàn, chấp hành nghiêm Điều lệ Đoàn, các Nghị quyết của Đoàn, xây dựng Đoàn ngày càng vững mạnh làm nòng cốt xây dựng và bảo vệ Đảng.
Bốn là, tiếp tục phát huy vai trò của cán bộ, đoàn viên thanh niên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn với chế độ trên không gian mạng. Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, xuất hiện nhiều bài viết, nhiều thông tin thiếu tích cực, thiếu tính chính thống tác động đến tư tưởng, tạo dư luận xã hội xấu độc, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ. Chính vì vậy, cần phải tăng cường bản lĩnh chính trị, tư duy lý luận và thực tiễn, giáo dục, tuyên truyền, định hướng, nâng cao kỹ năng truyền thông, kỹ năng công nghệ cho cán bộ, đoàn viên thanh niên trong sử dụng mạng xã hội an toàn để xây dựng ý thức phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”; bồi dưỡng lớp cán bộ, đoàn viên thanh niên đủ khả năng thích ứng, khả năng miễn nhiễm, nâng cao sức đề kháng và chủ động trong đấu tranh, phản bác những quan điểm, luận điệu sai trái, thiếu tích cực. Nghiên cứu xây dựng và phát triển các trang fanpage, group, facebook, youtube, blog, website để đăng tải những thông điệp đẹp, nêu gương người tốt, việc làm hay trên không gian mạng, đồng thời phải biết nhận diện, phân tích các thông tin sai sự thật, luận điệu xuyên tạc để đấu tranh phản bác tạo sức lan tỏa đến đông đảo đoàn viên thanh niên góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy sức mạnh trong bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước, Nhân dân và những thành tựu cách mạng.
Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta trước lúc đi xa, Người đã viết: Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Vì vậy, bồi dưỡng thế hệ cán bộ, đoàn viên, thanh niên cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết của cả hệ thống chính trị nước ta hiện nay để đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nguyễn Quang Hưng - Bí thư Chi đoàn Thanh niên Công ty cổ phần đầu tư và phát triển bất động sản Hudland